Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

Nhật ký trong tù và lời bình hay trò đùa của Nhà phê bình văn học Lê Xuân Đức- Phần II

Hoàng Tuấn Công  

Phần hai: Đạo văn để bình văn
 
          Trong Lời tác giả Lê Xuân Đức viết: "Với niềm đam mê thơ Bác, chúng tôi đã chuyên tâm nghiên cứu và thẩm bình thơ Bác từ năm 1973 đến năm 2013 này, tròn 40 năm, và đã hoàn thành việc thẩm bình toàn bộ 133 bài thơ của Nhật ký trong tù. Trong sách "Nhật ký trong tù và lời bình" này, chúng tôi không đưa vào sách 39 bài thơ đã bình và một số bài bình khác chúng tôi đã in trên các sách báo mà chỉ đưa những bài bình các bài thơ chưa ai bình và chọn một số bài thể hiện tư tưởng chính trị của "Nhật ký trong tùđể thấy sự nhất quán của cả tập thơ. Về thẩm bình toàn bộ "Nhật ký trong tù" chúng tôi sẽ công bố thời gian tới".


          Chúng ta khoan nói đến hai từ "thẩm bình" của Lê Xuân Đức. Cũng chưa vội xem Chuyên gia số một về thơ Bác dạy người "thẩm bình" thơ như thế nào. Ta hãy xem Lê Xuân Đức đạo văn để bình văn ra sao.

          "Căn nhà" xảy ra "vụ này" có tên "Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp". "Khổ chủ" là soạn giả GS Hoàng Tranh- Phó viện trưởng Viện khoa học xã hội Quảng Tây. Ông là người có nhiều công trình nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh như: Hồ Chí Minh với Trung Quốc (NXB Giải phóng quân) Hồ Chí Minh-Thơ trong tù-Chú thích (NXB Giáo dục Quảng Tây) Tập sách ảnh Hồ Chí Minh với Trung Quốc-NXB Bách khoa toàn thư Trung Quốc" (Lời giới thiệu ngoài bìa sách Thơ chữ Hán Hồ Chí minh-Chú thích-thư pháp).
 
          Lời Nhà xuất bản chính trị Quốc gia: "Nhân kỷ niệm 115 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia phối hợp cùng bảo tàng Hồ Chí Minh xuất bản cuốn Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-Chú thích-Thư pháp. Cuốn sách gồm hai phần chính: Phần thơ chữ Hán-Chú thích gồm thơ chữ Hán trong và ngoài Nhật ký trong tù với 169 bài, trong mỗi bài đều có chú thích, được biên soạn rất công phu, kỹ lưỡng, giúp bạn đọc hiểu được thời gian, bối cảnh, địa điểm, sự kiện, nhân vật mà Hồ Chí Minh làm thơ; phần hai Thơ chữ Hán-Thư pháp..."  

          Như vậy, chỉ cần xem cách đặt tên cuốn sách và lời giới thiệu của NXB Chính trị quốc gia cũng đủ biết phần "chú thích" trong sách "Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp" quan trọng và giá trị như thế nào (tie "chú thích" được đưa vào tên sách, in ngoài bìa). 

Cũng xin nói trước rằng: Sách của GS Hoàng Tranh xuất bản tháng 5/2005, trong khi sách "Nhật ký trong tù và lời bình"của Lê Xuân Đức xuất bản năm 2013. Như vậy, chỉ trừ trường hợp GS Hoàng Tranh có tài tiên tri, mới "đạo" được chú thích trong sách của Lê Xuân Đức xuất bản sau đó 8 năm.

          Xưa nay, một khi đã lọt vào nhà, dù nhà giàu hay nghèo bọn đạo chích vẫn thường nhanh chóng lấy đi những thứ giá trị nhất của căn nhà ấy. Với "căn nhà" Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp của GS Hoàng Tranh, (sau đây gọi tắt GS Hoàng Tranh) Lê Xuân Đức cũng đã "bê" gần như toàn bộ "đồ đạc" đáng giá nhất của cuốn sách đem về nhà mình. Một số ông để nguyên xi, dùng đúng chức năng vốn có của nó. Phần còn lại, ông sửa chữa, thay hình đổi dạng hoặc có “sáng kiến” dùng vào việc khác. 

          Lấy chú thích của người khác làm chú thích của mình:
          1.Bài Điền đông:

 -GS Hoàng Tranh:Điền Đông là một huyện thuộc lưu vực sông Hữu Giang của tỉnh Quảng Tây, trực thuộc thành phố Bách Sắc, cách huyện lỵ Thiên Bảo (nay là Đức Bảo) hơn 80 km, cách thành phố Nam Ninh hơn 90 km, trước đây muốn đi từ Thiên Bảo đến Nam Ninh nhất thiết phải qua Điền Đông.


          -Chuyên gia thơ Bác Lê Xuân Đức (sau đây gọi tắt CG Lê Xuân Đức) : Điền Đông là một huyện thuộc lưu vực sông Hữu Giang, của tỉnh Quảng Tây, trực thuộc thành phố Bách Sắc, cách huyện lỵ Thiên Bảo (nay là Đức Bảo) hơn 80 km, cách thành phố Nam Ninh hơn 90 km.Trước đây,muốn đi từ Thiên Bảo đến Nam Ninh không thể khôngqua Điền Đông.

          *Như vậy, CG Lê Xuân Đức chỉ thay "nhất thiết phải" bằng "không thể không", bỏ chữ "của" đi và chấm phẩy lại tí chút.

          2.Bài Nhà lao Quả Đức:

          -GS Hoàng Tranh:Quả Đức là tên một huyện thời kỳ Quốc dân Đảng, đặt ở thị trấn Quả Hóa phía tây bắc huyện lỵ Bình Quả, Quảng Tây ngày nay. Năm 1951, hợp nhất hai huyện Bình Trị và Quả Đức thành huyện Bình Quả, huyện lỵ đặt ở thị trấn Mã Đầu, nay cũng chính là huyện lỵ Bình Quả, cách Điền Đông 60 km cách Nam Ninh 130 km.

          -CG Lê Xuân Đức: Năm 1951, Quả Đức hợp nhất với huyện Bình Trị lấy tên là huyện Bình Quả, huyện lỵ đặt ở thị trấn Mã Đầu, cách Điền Đông 60 km, cách Nam Ninh 130 km.

*Ở đây, Lê Xuân Đức bỏ bớt đi một câu. Cụm từ  "hợp nhất hai huyện Bình Trị và Quả Đức" được diễn đạt thành "Quả Đức hợp nhất với huyện Bình Trị"

          3.Bài Sở trưởng Long An họ Lưu:

          -GS Hoàng Tranh:Long An là một huyện ở lưu vực sông Hữu Giang, tỉnh Quảng Tây, nay trực thuộc thành phố Nam Ninh, cách huyện lỵ Bình Quả hơn 30 km, cách Nam Ninh khoảng 100 km.

          -CG Lê Xuân Đức:Nhà lao Long An cũng là nhà tù cấp huyện, cách Quả Đức 37 km, cách Nam Ninh khoảng 100 km, dọc theo sông Hữu Giang chếch về phía Nam. Nay Long An thuộc thành phố Nam Ninh.

          *Chú thích này cũng được LXĐ “chỉnh trang” lại đôi chỗ như bạn đọc thấy.

          4.Bài Đồng Chính:
 
          -GS Hoàng Tranh:(1) Đồng Chính, tên một huyện cũ của tỉnh Quảng Tây, một khu hành chính trong thời kỳ Quốc Dân Đảng, nay ở thị trấn Trung Đông phía tây bắc huyện lỵ Phù Tuy, cách Long An 30 km, cách Nam Ninh 50 km.

          CG Lê Xuân Đức: (1) Đồng Chính là một huyện, một khu hành chính trong thời kỳ Quốc Dân Đảng cai quản, nay là thị trấn Trung Đông phía tây bắc huyện lỵ Phù Tuy, cách Long An 30 km, cách Nam Ninh 50 km.

          Đây cũng là chú thích LXĐ thêm bớt đi chút ít để thành ‘đồ nhà” mình.

          -GS Hoàng Tranh:

          (2) Bình Mã, tức thị trấn Bình Mã, là huyện lỵ của Điền Đông, tỉnh Quảng Tây. Hồ Chí Minh đã từng bị giam ở nhà lao huyện Điền Đông.

          -CG Lê Xuân Đức:

          (2) Bình Mã là thị trấn, huyện lỵ của Điền Đông. Bác đã từng bị giải đến nhà giam ở đây, rồi Quả Đức, Long An, bây giờ là Đồng Chính.

          Như thế, ở bài "Đồng Chính" có hai chú thích của GS Hoàng Tranh, Lê Xuân Đức đã "chôm" cả hai. Ngoài ra, bài "Đồng Chính" còn một chú thích đánh dấu sao của người dịch Nguyễn Huy Hoan: "Hai chữ 'chính đồng" có nghĩa là giống nhau” được CG Lê Xuân Đức "lấy" và đưa nguyên xi vào phần "lời bình" của bài này (phần sau ở mục lấy chú thích làm lời bình chúng tôi sẽ nói rõ hơn). 

          5.Bài Ngục Thiên Giang:

          -GS Hoàng Tranh: Thiên Giang là tên một huyện thời Quốc dân Đảng, ngày nay trở thành thị trấn, trực thuộc khu Hưng Tân, thành phố Lai Tân, tỉnh Quảng Tây, cách Tân Dương 49km về phía Bắc.

          -CG Lê Xuân Đức: Thiên Giang là tên một huyện thời Trung Hoa dân quốc, nay là thị trấn, trực thuộc khu Hưng Tân, thành phố Lai Tân, tỉnh Quảng Tây, cách Tân Dương 49km về phía Bắc cách Lai Tân 42 km.

          Ở đây ta thấy có một cái lạ. Dường như GS Hoàng Tranh đi điền dã ở Quảng Tây, Lê Xuân Đức cũng sang tận Quảng Tây để "đo đường". Thậm chí Lê Xuân Đức đo kỹ, làm "nghiêm túc" hơn. Đó là chi tiết "cách Lai Tân 42 km" mà GS Hoàng Tranh không có. Nhưng xin thưa, đó là số liệu ông Lê Xuân Đức "vặt" trong chú thích bài "Đáp xe lửa đi Lai Tân" của GS Hoàng Tranh. Ở đó GS cho biết, “Lai Tân cách Thiên Giang 40 km”. Còn ở đây CG Lê Xuân Đức nói Thiên Giang cách Lai Tân 42 km !

          6.Bài Đến Liễu Châu:

          -GS Hoàng Tranh: “Liễu Châu là tỉnh Quảng Tây chếch về phía đông bắc, có sông Liễu Giang là một nhánh của sông Tây Giang chảy qua, Liễu Châu ngày nay là một thành phố cấp địa khu”.

          -CG Lê Xuân Đức: “Liễu Châu nằm giữa tỉnh Quảng Tây chếch về phía Đông Bắc, có sông Liễu Giang là một nhánh của sông Tây Giang chảy qua, trên đường từ Nam Ninh đi Quế Lâm. Liễu Châu ngày nay là một thành phố cấp địa khu”.
          7.Bài Đáp xe lửa đi Lai Tân:

          -GS Hoàng Tranh: “Lai Tân là một huyện cũ, ngày nay đã trở thành khu (quận) Hưng Tân, trực thuộc thành phố Lai Tân ở cấp địa khu (trên cấp huyện theo cấp quản lý của Trung Quốc), cách Tân Dương 90 km, cách Thiên Giang 40 km, cách Liễu Châu 80 km”.

          -CG Lê Xuân Đức: “Lai Tân là huyện thời Trung Hoa dân quốc, nay trở thành khu (quận) Hưng Tân, trực thuộc thành phố Lai Tân ở cấp địa khu trên cấp huyện theo cấp quản lý của Trung Quốc hiện nay. Những năm 40 của thế kỷ XX gần huyện lỵ Lai Tân có cơ sở khai thác than, có đường xe lửa chuyên chở than của Công ty Hợp Sơn”.

          Sao Lê Xuân Đức lại biết rõ hơn GS Hoàng Tranh thế này nhỉ ? (phần gạch chân) Hình như đoạn này CG Lê Xuân Đức đi Quảng Tây điền dã thật thì phải ? Nhưng không ! Nguyên ở bài "Đáp xe lửa đi Lai Tân" GS Hoàng Tranh có hai chú thích. Chú thích (1) đã được CG Lê Xuân Đức sử dụng (phần không gạch chân). Còn chú thích (2) GS viết: "Ở gần huyện Lai Tân là nơi sản xuất than, có Cục khoáng sản Hợp Sơn. Những năm 40 của thế kỷ XX đã có xe lửa chuyên chở than. Năm ấy, Hồ Chí Minh rời Thiên Giang, sau một chặng đường đi bộ đã lên xe lửa chở than của Công ty Hợp Sơn để đến huyện lỵ Lai Tân". Thế là CG Lê Xuân Đức đã "biên tập" lại hai chú thích của GS Hoàng Tranh thành một thích của mình. 

          Ở trên, chúng tôi có nói, phần "chú thích" trong "Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp" quan trọng và giá trị bởi đây là lần đầu tiên, các địa danh, địa điểm Bác Hồ từng bị giam cầm và ghi lại trong "Nhật ký trong tù" được chú thích một cách chi tiết, cụ thể như vậy. Ở đất nước Trung Hoa rộng lớn, mỗi huyện của họ tương đương một tỉnh ở mình, thời gian xảy ra câu chuyện đã hơn nửa thế kỷ. Địa danh lúc tách, lúc nhập; đường sá, sự vật, con người đã thay đổi quá nhiều. Đặc biệt là sự phát triển nóng của kinh tế Trung Quốc khiến cho chính những người tù từng bị giam giữ, giải đi giải lại ở vùng Quảng Tây nếu trở lại cũng khó có thể nhận ra. Việc xác định lại như GS Hoàng Tranh là việc không hề đơn giản. Chú thích của GS Hoàng Tranh không chỉ là công sức, trí tuệ mà còn là tiền bạc. Mặt khác, công trình này còn có vai trò đóng góp quan trọng, của NXB Chính trị quốc gia, của dịch giả Nguyễn Huy Hoan. Bởi vậy, chẳng có lý do gì, Chuyên gia Lê Xuân Đức ngồi mát ở khu Bán đảo Linh Đàm-Hà Nội lại tự tiện "thó" về dùng mà không một lời chú dẫn. Giả sử những thông tin trong chú thích của "Nhật ký trong tù và lời bình" được lấy ra từ một cuốn sách địa dư chí của Quảng Tây, (tài liệu không liên quan gì đến chủ đề thơ Bác) thì  Lê Xuân Đức vẫn phải chú thích nguồn gốc tài liệu, thông tin ấy. Đó là cách làm của người đường hoàng, tôn trọng bản quyền, luật pháp. Huống chi, ở đây, GS Hoàng Tranh viết về Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh, Lê Xuân Đức cũng viết về "Nhật ký trong tù", sao có thể “đạo” trắng trợn đến vậy ?

Ngoài đạo "chú thích" làm "chú thích", Lê Xuân Đức còn đạo "chú thích" của GS Hoàng Tranh làm "lời bình" ("thẩm bình") Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh. Sau đây là một số trường hợp:

          1.Bài Điền Đông:

Ở phần trên, ta đã biết Lê Xuân Đức đạo “chú thích” của GS Hoàng Tranh trong bài này làm “chú thích” của mình. Phần còn lại, ông đưa vào lời bình:

Câu Tân như quế dã, mễ như châu (Củi đắt như quế, gạo như châu):

- GS Hoàng Tranh chú thích: “Ý câu thơ trên muốn nói gạo và củi đều đắt đỏ. Trong sách Chiến quốc sách, sở sách tamcó câu: "Lương thực ở nước Sở quý như ngọc, củi quý như quế"

-CG Lê Xuân Đức "bình": "Câu kết bài thơ có thể Bác mượn ý từ câu "Sở quốc chi thực quý ư ngọc, tân quý ư quế" (Ở nước Sở lương thực đắt đỏ như ngọc, củi đắt như quế) trong sáchChiến quốc sách, Sở sách tam.."

          2.Bài Thịt chó ở Bào Hương:

          -GS Hoàng Tranh chú thích: “Bào Hương là địa danh, trước đây gọi là Bào Kiều Hương, ngày nay gọi là làng Bào Kiều (Bào Kiều khu) trực thuộc thị trấn Lục Oát, huyện Vũ Minh, cách huyện lỵ Vũ Minh 15km về phía đông bắc. Nhân dân làng này rất thích ăn thịchó, nhưng theo phong tục, tập quán cũ thường không được giết chó trong nhà, mà phải ăn thịt chó ở các hàng thịt chó bên ngoài, vì vậy, các quán thịt chó ở vùng này rất nhiều.

          -CG Lê Xuân Đức "bình":Bào Hương thuộc huyện Vũ Minh, cách huyện lỵ Vũ Minh 15km về phía Đông Bắc, trực thuộc thị trấn Lục Oát. Huyện Vũ Minh trước đây gọi là Bào Kiều Hương ngày nay, gọi là làng Bào Kiều (Bào Kiều khu).Nhân dân làng này rất thích ăn thịt chó, nhưng theo phong tục, tập quán cũ thường không được giết chó trong nhà, mà phải ăn thịt chó ở các hàng thịt chó bên ngoài, vì vậy, các quán thịt chó ở vùng này rất nhiều, quán nối quán”.

          Giống như kẻ ăn cắp được cái nồi đồng, Lê Xuân Đức cố tình "đập" cho méo mó, biến dạng một chút để  phòng khi “xào nấu”, không ai phát hiện ra. Thế nhưng khổ nỗi, ông đập mạnh tay quá, làm hỏng luôn cả cái nồi: GS Hoàng Tranh viết: "Bào Kiều Hương, ngày nay gọi là làng Bào Kiều (Bào Kiều khu) trực thuộc thị trấn Lục Oát, huyện Vũ Minh...", ( chú ý: sau cụm từ "huyện thị trấn Lục Oát" là dấu phẩy, nghĩa là làng Bào Kiều thuộc thị trấn Lục Oát, và thị trấn Lục Oát lại thuộc huyện Vũ Minh). Thế nhưng, trong lúc dấm dúi, Chuyên gia “xào xáo” Lê Xuân Đức đã nhầm lẫn tai hại: Ông cắt dán và đặt dấu chấm (.) thay cho dấu (,) ngăn cách giữa hai cụm từ "thị trấn Lục Oát, huyện Vũ Minh", thành "Huyện Vũ Minh trước đây gọi là Bào Kiều Hương, ngày nay gọi là làng Bào Kiều" (!) Thế là CG Lê Xuân Đức đã viết lại lịch sử làng Bào Hương, biến làng Bào Kiều thành huyện Vũ Minh trước đây (!) Như thế, theo tay bút “đạo văn” Lê Xuân Đức, Bào Hương vốn là một huyện chứ không phải là một làng như trong "Nhật ký trong tù" và GS Hoàng Tranh đã viết.

          Đối với phần sau chú thích của GS Hoàng Tranh nói lý do ở Bào Hương lắm quán thịt chó, Lê Xuân Đức để nguyên từng dấu chấm, dấu phẩy, và thêm vào 4 từ "quán nối nối quán" để thành "lời bình" của ông ! (Cũng xin lưu ý thêm, phần "lời bình" bài "Thị chó ở Bào Hương"của Lê Xuân Đức chỉ vẻn vẹn có 20 dòng, trong đó, riêng phần "chú thích" của GS Hoàng Tranh mà ông "chôm" về làm "lời bình" đã chiếm mất 8 dòng).

          3.Bài Tiền đèn:

-GS Hoàng Tranh chú thích: "Quế tệ  là loại giấy bạc do chính quyền địa phương Quảng Tây phát hành"

-CG Lê Xuân Đức "bình": "Quế tệ là loại giấy bạc do chính quyền địa phương Quảng Tây phát hành, lưu thông trong tỉnh".

Như vậy, ông Đức chỉ thêm có 4 từ được chúng tôi gạch chân.

          4. Bài Đến Quế Lâm:

          -GS Hoàng Tranh chú thích: Trước khi Hồ Chí Minh bị giam, Người từng sống và làm việc một thời gian tại trụ sở của Văn phòng Bát lộ quân Quế Lâm, nên người rất quen thuộc với thành phố nối tiếng về cây quế và hoa quế này. Nhưng ở đây, Người viết: "Quế lâm vô quế diệc vô lâm, Chỉ kiến sơn cao dữ thủy thâm" để nói lên cảnh tối tăm của nhà tù và tâm trạng buồn chán của mình".

          -CG Lê Xuân Đức "bình": "Đây  không phải là lần đầu Bác đến Quế Lâm...khi đang hoạt động ở Trung Quốc, Bác thường đi về Quế Lâm làm việc tại trụ sở Bát lộ quân và có một vài lần đến Quế Lâm (...) Quế Lâm chẳng có gì xa lạ với Bác, một vùng đất nổi tiếng về cây quế và hoa quế, nhưng lần này đến Quế Lâm mang thân phận của người tù, chẳng thấy rừng, thấy quế đâu".

          5. Bài Đến cục chính trị chiến khu 4:

          -GS Hoàng Tranh chú thích: "Theo những ghi chép của Hồ Chí Minh trong cuốn "Nhật ký trong tù", thì 13 huyện đó đi theo trình tự như sau: Thiên Bảo (ngày nay là Đức Bảo), Tĩnh Tây, Điền Đông, Quả Đức (nay là Bình Quả) Long An, Đồng Chính (nay là Phù Tuy), Nam Ninh, Vũ Minh, Tân Dương, Thiên Giang (là thị trấn Thiên Giang) Lai Tân, Liễu Châu, Quế Lâm".

          -CG Lê Xuân Đức "bình": "Theo thứ tự ghi chép trong cuốn Ngục trung nhật ký, thì 13 huyện mà Bác bị giải đến là: Thiên Bảo (nay là Đức Bảo), Tĩnh Tây, Điền Đông, Quả Đức (nay là Bình Quả) Long An, Đồng Chính (nay là Phù Tuy), Nam Ninh, Vũ Minh, Tân Dương, Thiên Giang (là thị trấn Thiên Giang) Lai Tân, Liễu Châu, Quế Lâm".

*Cái khác đáng kể ở đây, GS Hoàng Tranh nói “Nhật ký trong tù” còn Lê Xuân Đức viết “Ngục Trung nhật ký”. Phần còn lại là bản copy.

          6.Bài Đọc lời giáo huấn của ông Tưởng:

          -GS Hoàng Tranh chú thích: "Tưởng công huấn từ, chỉ những lời nói của Tưởng Giới Thạch. Những lời phát biểu của Tưởng Giới Thạch quyết kháng chiến đến cùng trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, Hồ Chí Minhđã được đọc trên các báo xuất bản ở Đệ tứ chiến khu bấy giờ như tờ Trần Trung Nhật báo.

          -CG Lê Xuân Đức "bình": Tưởng công huấn từ, trong bài thơ này là những lời phát biểu của Tưởng Giới Thạch. Những lời phát biểu của Tưởng Giới Thạch quyết kháng chiến đến cùng trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, Bác đã đọc được những lời huấn từ trên các tờ báo xuất bản ở Đệ tứ chiến khu, trong đó có tờ Trần Trung Nhật báo.

          *Cái khác đáng kể ở đây là Lê Xuân Đức chữa hai chữ “được đọc” thành “đọc được”, thay “Hồ Chí Minh” bằng “Bác”.

          7.Bài Tướng quân Lương Hoa Thịnh thăng chức phó tư lệnh:

          -GS Hoàng Tranh chú thích: Lương Hoa Thịnh nguyên là Chủ nhiệm Cục chính trị Đệ tứ chiến khu. Tháng 5 năm 1943, ông được thăng chức Phó tư lệnh Đệ tứ chiến khu. Ông đã từng tham gia chiến đấu chống Nhật ở các chiến trường Chiết Giang, Hồ Nam, sau đó dẫn quân từ Vân Nam vào chiến khu Miến Điện (Mianma). Khi Lương Hoa Thịnh làm chủ nhiệm Cục chính trị Đệ tứ chiến khu, ông đã thẩm tra Hồ Chí Minh ở trại giam, vì thế Hồ Chí Minh đã ít nhiều hiểu về binh nghiệp của ông.

          -CG Lê Xuân Đức "bình":  Trung tướng Lương Hoa Thịnh là Chủ nhiệm Cục chính trị Đệ tứ chiến khu ở Liễu Châu, tỉnh Quảng Tây đã có lần trực tiếp xét hỏi Bác, và có những ưu đãi với Bác khi bị giam giữ ở nhà giam của Cục chính trị. Tiếp xúc với vị tướng quân này Bác hiểu ít nhiều cuộc đời binh nghiệp của ông, Bác khâm phục tài năng và đức độ của ông. Tháng 5-1943, ông được thăng thức Phó tư lệnh..."

          Ở đây, Lê Xuân Đức cũng chỉ thay “Hồ Chí Minh” bằng “Bác” là đáng kể, cộng thay đổi chút diễn đạt là thành của mình.

          8.Bài Tức cảnh:

          -GS Hoàng Tranh chú thích: “Trương Phi và Quan Vũ là hai danh tướng nhà Thục Hán thời Tam quốc. Trương Phi nổi tiếng về tính cương trực, Quan vũ nổi tiếng về các đức tính tín nghĩa, trung dũng. Hai người cùng là anh em kết nghĩa của Lưu Bị”.

          -CG Lê Xuân Đức "bình": “Trương Phi và Quan Vũ là hai danh tướng nhà Thục Hán thời Tam quốc. Trương Phi (còn có tên là Trương Dực Đức)nổi tiếng về tính cương trực và dũng cảm, Quan vũ (Quan Văn Trường, Quan Công) nổi tiếng về các đức tính tín, nghĩa, trung dũng. Hai người cùng Lưu Bị.kết nghĩa anh em "Đào viên kết nghĩa". 

          *Đoạn này Lê Xuân Đức chỉ thêm chút ít phần mở ngoặc.

          -GS Hoàng Tranh chú thích: Hai câu thơ: "Cành lá khéo in hình Dực Đức, Vầng hồng sáng mãi dạ Quan Công", chính là lúc Hồ Chí Minh nhìn cảnh vật rồi liên tưởng tới hai nhân vật Trương Phi và Quan Công trong lịch sử Trung Quốc, được nhân dân rất sùng kính để nói lên tình cảm của mình. Từ trong tù nhìn ra xa, Hồ Chí Minh thấy những ngọn cây lá tua tủa giống như khuôn mặt Trương Phi với bộ râu quai nón, và cũng nghĩ đến bộ râu của mình trong tù không được cạo giống như Trương Phi vậy. Lại nhìn mặt trời đỏ, Người nghĩ đến tấm lòng son sắt , trung nghĩa của Quan Vũ, liên tưởng đến mình cũng đang ấp ủ trong lòng trung son sắt với Tổ quốc và nhân dân.

          -CG Lê Xuân Đức "bình": "Ngọc cây khéo vẽ hình Trương Phi, Vầng hồng sáng mãi lòng Quan Vũ" Trong lịch sử và trong đời sống tinh thần Trung Quốc, hai tướng Trương Phi và Quan Công được nhân dân rất sùng kính, là biểu tượng đẹp đẽ, biểu tượng sống được lưu truyền, ai ai cũng biết. Điều chắc chắn hình ảnh hai vị để lại ấn tượng sâu đậm trong tâm khảm Bác, nên từ trong tù nhìn thấy những ngọn cây lá tua tủa, Bác đã tưởng giống như khuôn mặt cương nghị Trương Phi với bộ râu quai nón oai hùng. Và, khi nhìn mặt trời đỏ rực, Bác liên tưởng đến tấm lòng son sắt , trung nghĩa của Quan Vũ, liên tưởng đến mình cũng đang ấp ủ trong lòng trung son sắt với Tổ quốc và nhân dân.

          Như vậy, không chỉ đạo ý, đạo lời mà Lê Xuân Đức còn đạo nguyên xi từng đoạn của GS Hoàng Tranh. Chỉ dừng ở đây thôi, chúng ta cũng thấy rằng, tính chất "đạo văn để bình văn" của Lê Xuân Đức rõ như thế nào. 

Sách có tên "Nhật ký trong tù và lời bình", vậy mà ông Lê Xuân Đức lấy “chú thích” của người khác để  làm "lời bình" của mình như vậy đó ! Chẳng nhẽ với 40 năm "thẩm bình" thơ Bác, và là người đầu tiên "thẩm bình" hết toàn bộ 133 bài thơ trong "Nhật ký trong tù""sẽ công bố thời gian tới", ông Lê Xuân Đức vẫn chưa hiểu thế nào là "chú thích" thế nào là "lời bình" (mà ông còn gọi bằng cái từ quái đản do ông nghĩ ra là "thẩm bình" !). Không hiểu, ý ông Lê Xuân Đức muốn thiên hạ "thẩm" cái hay cái đẹp trong "lời bình" của ông, hay ông "thẩm định" và "bình xét" thơ Bác Hồ ?

 Sách ông đề "Nhật ký trong tù và lời bình", nhưng phần "Nhật ký trong tù" đã bị ông xuyên tạc nguyên tác, "chữ tác, đánh chữ tộ"; phần "lời bình" ông lại "chôm" chú thích của người khác để “bình”. Như thế, chẳng phải độc giả đã mất tiền oan để mua về "nguyên tác" thơ Hồ Chí Minh bị ông xuyên tạc, và mua lại “chú thích” đã có trong sách Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp của GS Hoàng Tranh hay sao ? 

Vậy ông Lê Xuân Đức có biết ngoài tội "đạo văn", ông có mắc tội gì nữa không ? Ông “kiến thức uyên thâm, tính tình trầm tĩnh”(chữ của nhà thơ Vương Trọng nhận xét về Lê Xuân Đức) chắc hẳn phải biết “Quải dương đầu, mại cẩu nhục” nghĩa là gì rồi chứ ?

 Ông Lê Xuân Đức đã từng tham gia và được nhận giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam về cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm VHNT, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Ông cũng từng làm Vụ trưởng vụ văn hóa giáo dụccủa Quốc hội, Đại biểu quốc hội khóa VIII. Vậy, ông Lê Xuân Đức có biết, hành động xuyên tạc nguyên tác thơ Hồ Chí Minhđạo văn để bình văncủa ông mắc vào tội gì, và đã xúc phạm tới những ai không ? Ông kỷ niệm 40 năm nghiên cứu thơ Bác và 70 năm “Nhật ký trong tù” (2013) bằng  một “tác phẩm” như “Nhật ký trong tù và lời bình” chăng ?
Tên sách là “Nhật ký trong tù và lời bình”nhưng phần nguyên văn chữ Hán, phiên âm, dịch thơ (ông giới thiệu nhiều bản dịch) chiếm phần lớn. Phần “lời bình” của ông rất ngắn, và chính ông đã mỉa mai gọi có là “lời bình” . Vì ngoài “đạo” nội dung chú thích của GS Hoàng Tranh, ông tán nhăng, tán cuội, kiến thức chắp vá, nông cạn, đầy rẫy sai lầm.

Chúng tôi chỉ muốn gói gọn vấn đề trong một bài viết. Tuy nhiên, do phần hai đã quá dài, nên hiện tượng “không biết chữ dạy người biết chữ” của Lê Xuân Đức đành hẹn gặp lại bạn đọc ở phần III của “Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của Nhà phê bình văn học Lê Xuân Đức”.
                                                                                   HTC



Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của Nhà phê bình văn học Lê Xuân Đức ?- Phần I

  Hoàng Tuấn Công
NQL: Tập thơ chữ Hán “Nhật ký trong tù”của Hồ Chí Minh có vị trí quan trọng trong chương trình học phổ thông. Không biết các cơ quan “gác gôn” văn hóa phẩm đi đâu mà để lọt lưới loại sách tham khảo như “Nhật ký trong tù và lời bình” của Lê Xuân Đức- Đại biểu Quốc hội khóaVIII. Đúng là cái cần gác thì lại chẳng gác ! Hay là thấy danh ông đại biểu Quốc hội nên không cần gác nữa?
 Quê Choa xin tạm dừng loạt bài “Thử lý giải những sai sót để đời của Nhà biên soạn từ điển-GS Nguyễn Lân” để đăng bài này trước, với mong muốn bài viết càng đến sớm với đông đảo bạn đọc càng tốt.


Phần I

Tan một nguyên tác thơ Hồ Chí Minh

Hôm trước, tình cờ đọc bài “Thiếp thư Bác Hồ gửi cho tướng Nguyễn Sơn...” trên Báo Hậu Giang, thấy tác giả Trần Thư Trung viết: “Một số sách báo viết về thiếp thư Bác Hồ gửi Nguyễn Sơn có sai sót. Cuốn “Đi tìm xuất xứ thơ Hồ Chí Minh” (NXB Văn học, Hà Nội, 2012) của Lê Xuân Đức có in chữ Hán mấy câu Bác viết trong thiếp thư nhưng lại sai 2 chữ: “Tặng” sai thành “tống”; “đệ” (bộ cung) nghĩa là em sai thành “đệ” (bộ trúc) nghĩa là thứ bậc”.
 
Tôi thầm nghĩ: thư của Bác chỉ vẻn vẹn 12 chữ mà sai mất 2 chữ, kể cũng hơi nhiều ! Lại nghĩ lại: Trần Thư Trung và độc giả nên thông cảm. Bởi “thiếp thư” ấy, người kể về nó thì nhiều mà tận mắt nhìn thấy nó thì ít. Riêng với Lê Xuân Đức, không biết chữ “đệ” nghĩa là em, khác chữ “đệ” là thứ (tự) phải viết khác nhau thế nào là chuyện hoàn toàn dễ hiểu. (Thực ra, “cái tội” dịch sai câu “Trí dục viên nhi hạnh dục phương” của Lê Xuân Đức chưa được Trần Thư Trung nêu ra).

Vậy Lê Xuân Đức là ai ?

Ông tự giới thiệu ngoài bìa sách kèm ảnh: “Lê Xuân Đức -Dạy văn, viết văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa VIII”.

“Mỗi năm hoa đào nở” người ta lại thấy ông Lê Xuân Đức trịnh trọng xuất hiện trên trang nhất các báo Xuân (từ trung ương đến địa phương) với những bài văn bình giảng thơ Bác Hồ. Bác thường làm thơ xuân. Mùa xuân nhớ Bác, đọc lại thơ Bác cũng là điều thú vị. Thế nhưng tôi thường không ngó qua những bài kiểu này của Lê Xuân Đức. Bởi không đọc cũng biết ông “hươu vượn” những gì trong đó. Ấy cũng là một cách “mũ ni che tai” mà im lặng ! Và “thượng sách” này đã giúp chúng tôi giữ được “vàng” trong mấy chục năm qua.

Thế nhưng, cách đây ít hôm, có cô giáo dạy văn cấp III nhờ tôi thể hiện bài thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh trên giấy khổ rộng để làm “giáo cụ” cho các em học sinh. Cô mang theo “Nhật ký trong tù và lời bình” của Lê Xuân Đức, có phần nguyên tác chữ Hán. Thế là sau bao năm giữ “thượng sách”, hôm nay buộc chúng tôi phải dùng “hạ sách” để “mở miệng” về hiện tượng Lê Xuân Đức: không biết chữ dạy người biết chữ, đạo văn để bình văn !

Cái sai đầu tiên trong “Nhật ký trong tù và lời bình” của Lê Xuân Đức nằm ở phần thể hiện nguyên tác chữ Hán thơ Hồ Chí Minh. Phiên âm một nơi, chữ một nơi, nghĩa một nẻo, cuối cùng thành xuyên tạc nguyên tác:

1.BàiNạn hữu Mạc mỗ” (Bạn tù họ Mạc):

Câu “Tại tù nhưng tưởng ngật nhân sâm”. Nguyên tác chữ “ngật” nghĩa là ăn uống, lại viết thành chữ “khiết” . Tuy “khiết” trong cổ văn cũng có nghĩa là ăn uống, nhưng văn bạch thoại ít dùng. Quan trọng hơn, nguyên tác chữ Hán của Hồ Chí Minh là “ngật” , phiên âm cũng là “ngật”, sao chữ lại viết là “khiết”  

2.BàiĐiền Đông”:

-Câu “Đỗ tử thì thì tại thán hu”,phiên âm đúng là “Đỗ tử” nhưng Lê Xuân Đức lại phiên thành “Đổ tử” ( đổ dấu hỏi ? ) là không đúng. Bởi “đỗ tử” 肚子 (đỗ dấu ngã ) cổ văn nghĩa là cái dạ dày, văn bạch thoại nghĩa là cái bụng. Còn phiên âm “đổ tử” (đổ dấu hỏi ?)  và viết là 賭子 lại hiểu thành “thằng con cờ bạc” (Nhật ký trong tù có bài "Đổ phạm"-Người tù cờ bạc) Cũng xin lưu ý, chữ “đổ” được Lê Xuân Đức nhắc lại hai lần trong bài.

-Câu “Bạch phạn tam nguyên bất câubão”, (Cơm nhạt ba đồng chẳng đủno). Chữ “câu” nghĩa là đủ, lại bị viết thành câu nghĩa là cái lưỡi câu (chữ câu này có bộ kim chỉ nghĩa và câu ghi âm). Sai sót này đã đem đến cho "nguyên tác" chữ Hán một nghĩa mới: Cơm nhạt ba đồng, chẳng có (thêm) cái lưỡi câu để ăn cho no (!) Nhà nghiên cứu phê bình Lê Xuân Đức thật là tài tình !

3.Bài “Sơ đáo thiên bảo ngục” (Mới đến nhà lao Thiên Bảo):

-Câu “Triệt dạ hựu vô an thụy xứ” (Suốt đêm lại chẳng có chỗ ngủ yên). Hai chữ “triệt dạ” 徹夜 có nghĩa là suốt đêm, lại bị phiên âm thành “triệt hạ”. Đáng chú ý, trong phần “lời bình” Lê Xuân Đức thêm hai lần nữa phiên âm “triệt dạ” thành ‘triệt hạ”. Đó là ở trang 33 và trang 93, bài “Nhà ngục Nam Ninh”, chữ “Triệt dạ” trong câu “Triệt dạ huy hoàng chiếu điện đăng” (Suốt đêm đèn điện chiếu sáng rực) lại vẫn bị Lê Xuân Đức “phiên” thành “Triệt hạ huy hoàng chiếu điện đăng” (!) Không hiểu ý soạn giả muốn “giết" ai ở đây ?

4.BàiĐồng Chính”:

-Câu “Thủy hòa quang tuyến hẩn sung túc” (Nước và ánh sáng thì rất đầy đủ). Chữ “hẩn” trong “hẩn sung túc” nghĩa là rất đầy đủ lại bị viết thành chữ cấp rảo bước, đi mau rất vô nghĩa. (Đối với người không biết chữ Hán, hai chữ  “hẩn” cấp tưởng như một).

-Câu “Nhật nhật hoàn khai lưỡng thứ lung”(Ngày ngày hai lần mở cửa buồng giam). Nguyên văn chữ Hán của Lê Xuân Đức thấy viết “mỗi nhật” 每日 (mỗi ngày), nhưng phần phiên âm lại là “nhật nhật” (ngày ngày) là cớ gì ? Thế là nguyên văn một nơi, phiên âm một nẻo !

-Câu “Mỗi xan nhất chúc đỗ không không” (Mỗi bữa một bát cháo, bụng đói cồn cào), Lê Xuân Đức phiên âm thành “Mỗi sannhất chúc đỗ không không” Thưa ông Lê Xuân Đức, “mỗi xan” (chữ X) chứ không phải “mỗi san” (chữ S). Vì “xan” mới có nghĩa là bữa ăn. Còn “san” có nhiều nghĩa. Nếu là chữ san nghĩa là chảy nước mắt, rơi lệ đầm đìa, thì phiên âm Mỗi san nhất chúc đỗ không không”lại có thể hiểu là: mỗi một lần khóc, nước mắt hòa vào bát cháo, không ăn nổi, khiến cái bụng đói cồn cào (!) 

5.Bài “Nạn hữu đích chỉ bị” (Chăn giấy của người bạn tù):

-Câu “Ngọc sàng cẩm trướng nhân tri phủ(Người nằm giường ngọc, trướng gấm có biết không ?) Chữ “tri phủ” bị phiên âm thành “chi phủ”. Ở đây “tri phủ” 知否 mới có nghĩa là “biết không” ? Còn chi phủ” (chi là trợ từ nghĩa là cái ấy, cái đó). Cứ “trong ý tứ mà suy”, câu “Ngọc sàng cẩm trướng, nhân chi phủ” ? của Lê Xuân Đức có thể hiểu là: Ngọc sàng cẩm trướng, người (có thích cái giường ngọc trướng gấm) đó không (!) Bằng không, cũng chẳng biết nó là cái chi ?

6.Bài “Điệt lạc” (Hụt chân ngã):

Chữ “lạc” trong Điệt lạc 跌落 (đầu đề bài thơ) có bộ thảo để biểu nghĩa rơi rụng. (câu “Diệp lạc tri thu” là chữ lạc này). Chữ lạc trong “điệt lạc” có nghĩa là thụt (tụt) chân xuống hố mà ngã. Tuy nhiên Nhà nghiên cứu Lê Xuân Đức lại dùng chữ lạc (có bộ thủy mà không có bộ thảo) với nghĩa chỉ địa danh một con sông bên Tàu. Thế là “Hụt chân thụt xuống hố sâu, nguy hiểm quá” lại thành bị ngã (xuống) con sông Lạc nguy hiểm quá !?

7. Bài “Song thập nhất” (Ngày 11 tháng 11):

Câu “Nhưng tu nỗ lực phản công thì (Nhưng vẫn phải gắng sức lúc phản công”, chữ “phảncông” bị phiên âm thành “phân công”: “Nhưng tu nỗ lực phân công thì”. Theo cách của Lê Xuân Đức, nghĩa câu thơ sẽ thành: Đến lúc được phân công sẽ cố gắng nỗ lực (!)

8. Bài “Việt hữu tao động” (Việt Nam có biến động):

-Chữ “tao động” nghĩa là rối loạn, lại được Lê Xuân Đức làm mới bằng cách dịch thành “báo động”: “Việt Nam có báo động”. Xin hỏi “báo động” gì trong bài thơ đó ? Lê Xuân Đức nhầm với bài “Cảnh báo” (Báo động) chăng ?

-Câu “Vị đắc cung thân thượngchiến trường”. “Thượng chiến trường” nghĩa là ra chiến trường, bị phiên âm thành “thương chiến trường”. Theo đó, câu “Vị đắc cung thân thương chiến trường” của Lê Xuân Đức có thể hiểu là: Bản thân chưa bị vết thương nào trên chiến trường (!)
9.Bài “Đáo Liễu Châu” (Đến Liễu Châu)

-Câu “Thiên tân vạn khổ phi vô hạn” (Muôn cay nghìn đắng không phải là vô hạn), chữ “tân” (nghĩa là cay) trong “thiên tân” 千辛 nghĩa là nghìn điều cay đắng, nhọc nhằn, bị viết thành chữ phụ nghĩa là thịnh vượng, giàu có, béo tốt. Mà “thiên phụ” 千阜 có thể hiểu là nghìn điều thịnh vượng, giàu có ?! Và “Thiên phụ, vạn khổ phi vô hạn” là: được hưởng ngàn lần giàu có thịnh vượng nên mới phải gặp vạn khổ đắng cay điều, cái đó không phải là vô hạn (!)

-Câu “Tỉnh lai diện thượng đới dư sầu” (Tỉnh ra trên mặt còn vương nét sầu) chữ “đới” bị phiên nhầm thành chữ “đối”. Lại “theo ý tứ mà suy”, câu Lê Xuân Đức phiên âm “Tỉnh lai diện thượng đối dư sầu” này có thể dịch theo cách dịch cổ văn là: “Tỉnh ra, soi gương (đối) thấy trên mặt vẫn còn buồn (!)

10. Bài “Cựu bất đệ giải” (Giam lâu không được xét):

-Câu “Nanquan mạt bộ bội gian nan” (Cửa ải khó, đến chặng cuối càng khó khăn). Chữ “nan quan” 難關 nghĩa là cửa ải khó khăn, bị phiên âm thành “nam quan”, một địa danh (tên gọi khác của Hữu Nghị quan). Thế là nguyên tác đã bị phiên âm “xuyên tạc” thành “Nam Quan mạt lộ bộ gian nan” nghĩa là: Chặng cuối về tới ải Nam Quan thấy càng gian nan (!)

-Chữ “mạt” trong “mạt bộ” nghĩa là chặng cuối, chặng về sau, bị phiên âm thành “mát bộ”. Dân ta có kiểu nói “mát ga, mát số” (mát từ vay mượn max = lớn, mát ga, mát số là ga to, số lớn = điều khiển xe với tốc độ lớn). Nếu hiểu “mát bộ” theo kiểu “mát số”, lại cộng cả cái sai “nan quan” thành “Nam Quan” của Lê Xuân Đức, câu thơ sẽ được hiểu: Tới ải Nam Quan, phải đi bộ rất gấp nên càng thêm bội phần vất vả (!)

11. Bài “Đáo đệ tứ chiến khu chính trị bộ” (Đến Cục chính trị chiến khu 4):

-Tên bài thơ “Đáo đệ tứ chiến khu chính trị bộ”.Chữ “đệ” (có bộ trúc đầu) trong “đệ tứ” nghĩa là thứ (trong thứ tự), bị viết thành chữ “đệ” nghĩa là em trai. Sự lầm lẫn này chính là trường hợp Lê Xuân Đức thể hiện “thiếp thư” bằng chữ Hán của Bác Hồ gửi cho tướng Nguyễn Sơn mà Trần Thư Trung nêu (đệ em thành đệ thứ). Chỉ khác lần này là lầm lẫn ngược lại. Nguyên nhân cũng là do với người lơ mơ về chữ nghĩa, hai chữ “đệ” này trông “giống nhau” như gà với...cuốc !

-Câu “Trú liễu thập bát cá giam phòng” (Từng trú lại mười tám nhà lao). Chữ “trú” nghĩa là ở trọ lại, (có bộ nhân đứng chỉ nghĩa) bị viết thành chữ “trụ” nghĩa là cái cột (có bộ mộc chỉ nghĩa). "Trú liễu" (ở hết) thành "trụ liễu" (cột hết) Thế là nguyên tác chữ Hán biến thành: Hết mười tám cái cột ở giam phòng (!) Lầm lẫn này có lẽ do dai chữ trú trụ âm đọc gần giống nhau, tự dạng nhìn nhang nhác như nhau (đều có bộ chủ ghi âm).

12.Bài “Mông ưu đãi” (Được ưu đãi)

Câu “Chủ nhiệm Lương công ưu đãi ngã”. Chữ “ưu” (có bộ nhân đứng) trong “ưu đãi” có nghĩa là nhiều, hơn, lại bị chép thành chữ “ưu” (không có bộ nhân đứng) nghĩa là ưu sầu, lo buồn. Thế là nguyên tác thơ Hồ Chí Minh với nghĩa “Ông chủ nhiệm họ Lương ưu đãi ta” đã biến thành: Ông chủ nhiệm họ Lương “đãi” ta nỗi ưu sầu (!) 

Đúng là chỉ có người 40 năm nghiên cứu, phê bình thơ Bác Lê Xuân Đức mới có thể biến cái sai thành cái “có lý” như vậy !

13.Bài “Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa viên” (Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng)

Câu “Lưỡng nhịkiến ngã thái khả lân” (Chính Lê Xuân Đức giảng: Hai người hai bận đến đến thăm thấy tình cảnh của ta đáng thương). Nguyên tác là “lưỡng nhị” nhưng bị viết thành “lưỡng nhân”. Viết là “lưỡng nhân” nhưng khi phiên âm lại là “lưỡng nhị” ! Cứ như một trò đùa vậy !

14. Bài “Bào hương cẩu nhục” (Thịt chó ở Bào Hương):

-Phần tên bài thơ “Bào Hương cẩu nhục”, chữ “cẩu” nghĩa là con chó, có bộ khuyển ghi nghĩa, chữ cấu , (âm khác là câu) ghi âm lại bị biến thành chữ câu nghĩa là bắt, bắt lấy cái gì (gồm bộ thủghi nghĩa và chữ câu ghi âm). Thế là nguyên tác chữ Hán “Bào Hương cẩu nhục” (Thịt chó ở Bào Hương) qua phù phép của Lê Xuân Đức đã bị biến thành “Bào Hương câu nhục” (đi câu thịt (chó) ở Bào Hương !?) 

Thế là Nhà nghiên cứu thơ Hồ Chí Minh Lê Xuân Đức nhầm lẫn lung tung cả: chữ câu (nghĩa là đủ) thành chữ câu (nghĩa là lưỡi câu-Bài Điền Đông) rồi lại nhầm cẩu (con chó) với câu (bắt, bắt lấy cái gì). 

-Câu “Khả kiến nhất ban đệ giải nhân”, chữ “đệ” trong “đệ giải” nghĩa là áp giải tù nhân, lại biến thành chữ “nghinh” nghĩa là đón rước. Cái sai này nguyên nhân do hai chữ nghinh và chữ đệ nhác trông hơi giống nhau ở bộ sước . Thế là nguyên tác thơ Hồ Chí Minh áp giải tù nhân, qua tay Lê Xuân Đức đã thành đón rước tù nhân (!)

-Câu “Sinh hoạt hữu thời dã bất tục” (Sinh hoạt đôi khi cũng tỏ ra sành sỏi), chữ “hữu thời” 有時 (chữ thờicó bộ nhật) nghĩa là có lúc, đôi khi, lại bị biến thành hữu “trĩ” (chữ trĩ có bộ sơn nghĩa là sừng sững, đối chọi). Nguyên nhân có lẽ chữ “trĩ” với người không biết chữ nhác trông hơi giống chữ thời (đều có chữ tự ghi âm) và có thể hiểu: Trong sinh hoạt có lúc đối chọi nhau, nhưng vẫn giữ được lịch sự (!)

Chỉ mới chép lại bài thơ “Thịt chó ở Bào Hương” mà soạn giả đã “chuếnh choáng hơi men”, nhìn gà hóa cuốc đến vậy sao ? Chúng tôi bình chọn “Thịt chó ở Bào Hương” là bài thơ tập trung nhiều lỗi nhất trong sách “Nhật ký trong tù và lời bình” của Nhà nghiên cứu phê bình văn học Lê Xuân Đức. Cũng xin độc giả tạm dừng ở con số 14 bài thơ chữ Hán với những cái sai được Nhà nghiên cứu phê bình Lê Xuân Đức đưa vào “Nhật ký trong tù và lời bình”, phát hành rộng rãi.

Nhận xét đầu tiên chúng tôi là: Một người có chữ không bao giờ để xảy ra những sai sót tệ hại như Lê Xuân Đức. Trong trường hợp phần nguyên văn chữ Hán do người khác thực hiện, sau khi sách in xong, Lê Xuân Đức vẫn có mắt để phát hiện ra chữ với nghĩa nó sai thế nào cơ mà ? Và khi ấy, với “niềm đam mê thơ Bác” (Lời tác giả) một người 40 năm đeo đuổi thơ Hồ Chí Minh, sách “Nhật ký trong tù và lời bình” sẽ bị tiêu hủy do chính tay tác giả ! Thế nhưng, từ năm 2013 đến nay, một ngàn bản sách đã được phát hành để đến tay bạn đọc, đến với các thầy cô giáo và học sinh yêu thơ Bác !

 Như vậy, cho dù dòng tiểu sử “Hội viên hội nhà văn Việt Nam, Đại biểu Quốc hội khóa VIII” ghi ở phía dưới khuôn ảnh sáng ngời trí tuệ ngoài bìa sách, Nhà phê bình văn học Lê Xuân Đức cũng khó có thể đổ lỗi cho ai trong trường hợp này. 

Phần “chữ” là vậy. Còn phần “lời bình”, Nhà phê bình Lê Xuân Đức “phê” và “bình” như thế nào ?

Vốn là một người dạy văn, nên cách viết “phê bình” của Lê Xuân Đức đậm đặc chất bình giảng trong nhà trường (Kiểu lấy “bằng bằng, trắc trắc”, “ngắt ngắt, nhịp nhịp”, “tu từ, thủ pháp” làm trọng). Suốt mấy chục năm qua, Lê Xuân Đức đã làm khổ bạn đọc bằng cách đem những lời nói trên bục giảng ấy đi đăng báo, in sách. In, đăng nhiều đến nỗi, ông hãnh diện khi được người ta suy tôn là “chuyên gia về thơ Bác”:“Chọn một số bài thơ của các nhà thơ khác nhau để bình mà được bạn đọc ghi nhận là điều không dễ, nhưng chọn hầu hết thơ của một tác giả để bình, đặc biệt tác giả đó là Bác Hồ, để trở thành một chuyên gia về thơ Bác thì khó gấp bội. Đọc những bài bình của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Lê Xuân Đức, ta nhận thấy rằng ông công phu, tâm huyết và hiệu quả” (Nhà thơ Vương Trọng-Lời in ngoài bìa sách “Nhật ký trong tù và lời bình”). 

Có lẽ ít nhiều Lê Xuân Đức cũng tự biết và mặc cảm với căn bệnh nghề nghiệp của mình. Thế nên, gần đây ông cố vùng vẫy thoát khỏi cái “ao văn bình giảng” chật hẹp để mong vẫy vùng, bơi lội trong “bể văn chương” rộng lớn. Thế là, thay vì chỉ “bình” và “giảng”, mõ tre sách in như trước, nay ông thêm cả “phê", "chê” thực sự. 

Vậy Lê Xuân Đức “phê” và “bình” thế nào ? Thưa rằng: Trong "Nhật ký trong tù và lời bình" ông lấy cái kiến thức nông cạn “chữ tác đánh chữ tộ, chữ ngộ thành chữ quá” của mình ra để “phê”, và đạo văn của người khác để “bình”. Đó cũng chính là chủ đề trong kỳ tiếp theo của chúng tôi với “Nhật ký trong tù và lời bình”-Lê Xuân Đức-Nhà xuất bản Văn học-2013.
 (Hết phần I)
Tài tài liệu tham khảo và trích dẫn:
-Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích - thư pháp-GS Hoàng Tranh-NXB Chính trị quốc gia-2003.
-Nhật ký trong tù-Hồ Chí Minh-NXB Văn hóa-Viện văn học-1960.
-Nghệ thuật thư pháp với thơ Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh-Nguyễn Việt biên soạn-NXB Công an nhân dân-2004.


Tác giả gửi Quê Choa